Tổng sản lượng từ khai thác và nuôi trồng thủy sản giảm 5,1% so với năm trước xuống còn 3,63 triệu tấn. Đây là năm thứ ba liên tiếp sản lượng giảm xuống dưới mức 4 triệu tấn và là năm thứ tư liên tiếp lập kỷ lục mới kể từ khi thống kê theo loài bắt đầu vào năm 1956.
Khai thác thủy sản biển, bao gồm các hoạt động khai thác xa bờ và ven biển, đạt tổng sản lượng 2,79 triệu tấn, giảm 4,8% so với năm 2023. Cá mòi Thái Bình Dương là loài được đánh bắt nhiều nhất với 666.700 tấn, chiếm khoảng 18% tổng sản lượng, nhưng giảm 3,8% so với năm trước.
Sản lượng khai thác sò điệp giảm 4,2% xuống còn 316.700 tấn, trong khi sản lượng cá thu Thái Bình Dương giảm 5% xuống còn 256.000 tấn. Các loài khác, bao gồm mực bay Nhật Bản, cá hồi, tảo bẹ, cá bơn và cá cơm, cũng đạt mức thấp kỷ lục.
Sự suy giảm của cá thu đặc biệt rõ rệt ở Hokkaido và Ibaraki, trong khi sản lượng sò điệp giảm ở Aomori và các vùng sản xuất chính khác.
Cá ngừ vằn tăng mạnh lên 243.100 tấn, tăng 26,5%, với mức tăng trưởng đáng kể ở các tỉnh Shizuoka và Miyagi. Cá minh thái tăng 0,5% lên 123.600 tấn.
Nuôi trồng thủy sản bị ảnh hưởng bởi sò điệp, rong biển
Sản lượng nuôi trồng thủy sản biển giảm 5,9% xuống còn 801.200 tấn. Nuôi cá vây đạt mức tăng trưởng vững chắc, với cá đuôi vàng tăng 7% lên 132.100 tấn và cá tráp đỏ tăng 1,6% lên 68.400 tấn, dẫn đầu là sản lượng ở các tỉnh Ehime và Oita.
Tuy nhiên, sản lượng động vật có vỏ và rong biển đều giảm. Sò điệp nuôi giảm 21,1% xuống còn 119.400 tấn, kéo tổng sản lượng động vật có vỏ giảm 10,6% xuống còn 269.000 tấn. Sản lượng hàu không đổi ở mức 149.100 tấn.
Thu hoạch rong biển giảm 8% xuống còn 274.600 tấn. Laver (Nori) giảm 3,4% xuống còn 194.100 tấn và tảo bẹ (wakame) giảm 20% xuống còn 39.700 tấn, với mức giảm mạnh được ghi nhận ở Miyagi.
Cuối cùng, tổng sản lượng đánh bắt thủy sản nội địa của Nhật Bản đạt 17.921 tấn. Sản lượng nuôi trồng thủy sản nội địa giảm 5,8% xuống còn 28.580 tấn, dẫn đầu là sản lượng lươn giảm 11,9% xuống còn 16.159 tấn. Sản lượng cá hồi tăng 6,5% lên 7.241 tấn.