Thủy sản Việt Nam và hành trình ra biển lớn

Thứ năm - 14/08/2025 02:32
Trong suốt 80 năm qua, ngành nông nghiệp và thủy sản Việt Nam đã trải qua một hành trình dài đầy thử thách nhưng cũng hết sức tự hào. Từ nền sản xuất tự cung tự cấp, manh mún, nặng tính bao cấp, đến nay, nông nghiệp và thủy sản đã trở thành trụ cột kinh tế, là “bệ đỡ” trong nhiều thời điểm khó khăn và là lĩnh vực giữ vai trò chiến lược trong phát triển đất nước, đặc biệt là bảo đảm an ninh lương thực, sinh kế cho hàng chục triệu nông dân và giữ vững chủ quyền quốc gia trên biển.
Những dấu mốc lịch sử đáng nhớ
Thủy sản Việt Nam và hành trình ra biển lớn 1
Nông nghiệp hoàn thành sứ mệnh
Ngay sau khi giành độc lập năm 1945, nông nghiệp nước ta đứng trước tình cảnh cực kỳ khó khăn với áp lực thiếu giống, thiếu phân bón, thiếu nhân lực, thiên tai và chiến tranh kéo dài. Nhiệm vụ hàng đầu của nông nghiệp nước ta khi đó là đảm bảo đủ lương thực cứu đói cho đồng bào.
Hơn 30 năm kháng chiến giải phóng dân tộc, ngành nông nghiệp đã hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ, vừa bảo đảm nhu cầu cho người dân vừa cung cấp đầy đủ cho tiền tuyến với tinh thần “Thóc không thiếu một cân, quân không thiếu một người”. Các phong trào “gió Đại Phong”, “sóng Duyên Hải”, “Cả nước vì tiền tuyến”… đã lan tỏa sâu rộng khắp mọi miền quê, tạo động lực lớn trong phát triển sản xuất.
Sau giải phóng, nền nông nghiệp tiếp tục có những bước tiến, tuy nhiên, giai đoạn 1976 – 1980, sản lượng lúa trung bình của cả nước mới chỉ đạt khoảng 13 – 14 triệu tấn/năm. Việt Nam vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn gạo để đáp ứng nhu cầu lương thực trong nước.
Năm 1986, tại Đại hội VI, nông nghiệp được xác định là mặt trận hàng đầu. Nhiều chính sách được ban hành đã mở đầu cho công cuộc đổi mới. Đặc biệt, chính sách khoán 10 đánh dấu bước ngoặt quan trọng khi người nông dân được trao quyền tự chủ lâu dài về ruộng đất. Đây được coi là động lực lớn cho sự phát triển của nông nghiệp Việt Nam. Nhờ đó, sản lượng lúa tăng nhanh nhanh chóng, năm 1987 đạt 15,1 triệu tấn và bật lên 32,55 triệu tấn vào năm 2000. Đáng chú ý là năm 1989, Việt Nam bắt đầu xuất khẩu gạo, mở ra kỷ nguyên mới cho ngành nông nghiệp trong nước, lần đầu tiên
Việt Nam trở thành nước xuất khẩu lúa gạo. Dần dần, các mặt hàng nông sản khác như cà phê, cao su, chè, hồ tiêu, rau quả cũng bắt đầu tham gia thị trường xuất khẩu.
Thủy sản dần chuyển mình
Thời kỳ này, ngành thủy sản nước ta vẫn chủ yếu mang tính tự nhiên, quy mô nhỏ, chủ yếu phục vụ tiêu dùng của nhân dân. Lĩnh vực khai thác vẫn chỉ ở khu vực gần bờ, nhưng bước đầu hình thành đội ngũ ngư dân bám biển. Từ năm 1963, các nhà khoa học thủy sản đã cho sinh sản nhân tạo thành công nhiều giống cá như mè, trắm, chép, trôi, rô phi… Sản xuất tôm giống nhân tạo cũng đạt kết qảu, mở ra triển vọng phát triển nuôi trồng thủy sản sau này. Những năm 1970, sản phẩm thủy sản đông lạnh Việt Nam được xuất khẩu sang thị trường khu vực II (Nhật Bản, Singapore, Hồng Kông).
Bước sang thập kỷ 80, thủy sản được coi là một trong những ngành đi tiên phong trong quá trình đổi mới, chuyển hướng sang nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta. Con đường mới của ngành đã được mở ra như một hải trình vươn ra đại dương rộng lớn. Ngành thủy sản thực sự có bước chuyển mình mạnh mẽ từ đầu thập niên 1990. Cụ thể, năm 1993, Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 5 khóa VII xác định xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế mũi nhọn. Thủy sản nuôi cũng ngày càng đa dạng hơn, trên cả 3 lưu vực là ngọt, mặn, lợ. Riêng về xuất khẩu, con tôm được coi là mũi đột phá quan trọng.
Ngành thủy sản tập trung đổi mới phương thức quản lý chất lượng sản phẩm, từng bước đáp ứng yêu cầu của các thị trường xuất khẩu, tạo dựng uy tín và chỗ đứng tại các thị trường lớn nhất trên thế giới. Năm 1995 được coi là dấu mốc tăng trưởng ấn tượng của ngành thủy sản. Tổng sản lượng đạt 1,34 triệu tấn, trong đó khai thác hơn 0,928 triệu tấn, nuôi trồng hơn 0,415 triệu tấn; kim ngạch xuất khẩu đạt 550.000 USD. Trong một thập kỷ từ 1980 – 1990, kim ngạch xuất khẩu thủy sản nước ta tăng bình quân 48,29%/năm; giai đoạn 1991 – 1996, tăng xuất khẩu duy trì ở mức 15,97%/năm.
Chủ động đi trước trong hội nhập quốc tế
Những năm đầu của thế kỷ 21 là giai đoạn mang tính bước ngoặt cho ngành nông nghiệp Việt Nam. Không chỉ đảm bảo trong nước, nông nghiệp đã có đóng góp quan trọng vào an ninh lương thực toàn cầu. Mỗi năm, nước ta xuất khẩu hơn 6 triệu tấn gạo, tương đương gần 10% tổng lượng gạo xuất khẩu trên thế giới, chỉ sau Ấn Độ và Thái Lan.
Thủy sản Việt Nam và hành trình ra biển lớn 2
“Hành trình phát triển thần kỳ của nông nghiệp Việt Nam đã được viết nên bằng mồ hôi, khát vọng và trí tuệ của người nông dân, nhà khoa học và cả hệ thống chính trị”. Ông Lê Minh Hoan, Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PTNT 

Với các mặt hàng nông sản khác, trong những năm gần đây, về khối lượng, Việt Nam luôn là nước xuất khẩu hạt điều và hạt tiêu lớn nhất thế giới, và đứng thứ hai về xuất khẩu cà phê (sau Brazil), đồng thời nằm trong top đầu về xuất khẩu rau quả và sản phẩm gỗ. Mỗi năm, khoảng một nửa sản lượng nông nghiệp của Việt Nam được xuất khẩu, mang về cho đất nước từ 40 – 50 tỷ USD. Nông nghiệp, nông thôn đã trở thành trụ đỡ, là nền tảng vững chắc để bảo vệ đất nước trong những thời điểm gặp khó khăn.
Từ sau năm 1995, ngành thủy sản phát triển một cách mạnh mẽ và toàn diện. Sản xuất kinh doanh chuyển biến vượt bậc, tạo ra nhiều việc làm và tăng thu nhập cho lao động nghề cá cả nước, tạo nguồn thu lớn cho ngân sách quốc gia. 
Ngành thủy sản đã chủ động đi trước trong hội nhập quốc tế, đẩy mạnh việc áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào sản xuất, gắn sản xuất nguyên liệu với chế biến, xúc tiến thương mại, mở rộng thị trường xuất khẩu. 
Sau hơn 30 năm, thủy sản đã có những bứt phá vượt bậc. Sản lượng năm 2023 gấp 7,1 lần so với năm 1995, nuôi trồng gấp hơn 5 lần. Cơ cấu sản lượng thủy sản có bước chuyển dịch tích cực, tỷ trọng nuôi trồng tăng từ 31% năm 1995 lên gần 57% năm 2023. Sản phẩm thủy sản Việt Nam đã xuất khẩu tới hơn 170 thị trường, kim ngạch xuất khẩu lần đầu vượt ngưỡng 1 tỷ USD (năm 1999) và lập kỷ lục gần 11 tỷ USD (năm 2022), đưa Việt Nam vào vị trí thứ 3 trong các nước xuất khẩu thủy sản lớn nhất thế giới (sau Trung Quốc và Na Uy).
Tối ưu hóa khoa học – công nghệ trong sản xuất
Cuộc cách mạng trong ứng dụng khoa học – công nghệ, đi liền với cải cách thể chế, tạo nên bước ngoặt lớn trong nông nghiệp Việt Nam, đặc biệt trong lĩnh vực trồng lúa.
Theo số liệu của Bộ Nông nghiệp và Môi trường, tính đến năm 2025, Việt Nam đã nghiên cứu, chọn tạo và đưa vào sản xuất hơn 1.600 giống lúa mới với năng suất, chất lượng ngày càng cao. Nhờ đó, năng suất lúa bình quân cả nước đạt khoảng 6,7 – 7,2 tấn/ha, tiếp tục đưa Việt Nam trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo hàng đầu toàn cầu.
Tỷ lệ cơ giới hóa trong khâu làm đất đạt trên 97%, còn trong khâu thu hoạch đạt trên 70%. Việc áp dụng máy móc hiện đại giúp giảm sức lao động, rút ngắn thời gian sản xuất, nâng cao hiệu quả kinh tế và giảm tổn thất sau thu hoạch. 
Thủy sản Việt Nam và hành trình ra biển lớn 3
Sau 80 năm, Việt Nam đã trở thành một trong những quốc gia xuất khẩu gạo lớn nhất thế giới. Ảnh: Lam Anh
Ngành nông nghiệp chuyển mình theo hướng hiện đại và bền vững. Nhiều mô hình sản xuất ứng dụng công nghệ cao như nhà kính, nhà màng, công nghệ tưới nhỏ giọt, IoT trong sản xuất nông nghiệp đã được áp dụng. Các chuỗi giá trị từ sản xuất đến tiêu thụ được hình thành rõ nét, nâng cao giá trị và tính cạnh tranh.
Theo đánh giá chung, ứng dụng khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo đóng góp trên 30% giá trị gia tăng trong sản xuất nông nghiệp, còn trong lĩnh vực sản xuất giống cây trồng, vật nuôi đạt 38%. Khoa học công nghệ đã góp phần nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, hàng hóa nông sản Việt trên thị trường quốc tế.
Đặc biệt, Nghị quyết số 57-NQ/TW của Bộ Chính trị đã xác định rõ phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số là các yếu tố quyết định sự phát triển của quốc gia, là nhiệm vụ tiên quyết, là thời cơ tốt nhất để nước ta phát triển nhanh, bền vững và trở thành quốc gia phát triển giàu mạnh, hùng cường trong kỷ nguyên mới.
Nghị quyết 57 đặt ra mục tiêu phát triển và tầm nhìn chiến lược dài hạn cho ngành nông nghiệp Việt Nam đến năm 2050, đó là trở thành một nền nông nghiệp tiên tiến, phát thải thấp và có sức cạnh tranh toàn cầu. 
Mỗi năm, khoảng một nửa sản lượng nông nghiệp của Việt Nam được xuất khẩu, mang về cho đất nước từ 40 - 50 tỷ USD. Nông nghiệp, nông thôn đã trở thành trụ đỡ, là nền tảng vững chắc để bảo vệ đất nước trong những thời điểm gặp khó khăn. 
Vững chắc trong kỷ nguyên xanh
Đến nay, sau 80 năm đồng hành cùng lịch sử dân tộc, ngành nông nghiệp Việt Nam đã có bước phát triển vượt bậc. Năm 2024, tăng trưởng GRDP toàn ngành đạt 3,3%; thị trường tiêu thụ nông sản tiếp tục mở rộng với tổng giá trị xuất khẩu đạt trên 62 tỷ USD; giá trị tăng thêm ngành nông nghiệp tăng 2,94% so với năm 2023, đóng góp 0,26 điểm phần trăm vào mức tăng tổng giá trị tăng thêm của toàn nền kinh tế. Nông nghiệp tiếp tục khẳng định vị thế và là trụ đỡ cho nền kinh tế, góp phần quan trọng ổn định kinh tế vĩ mô. Đặc biệt, ngành nông nghiệp đã có bước chuyển đổi mạnh mẽ sang tư duy kinh tế nông nghiệp, nâng cao giá trị gia tăng và từng bước thay đổi sang “nông nghiệp xanh”.
Một số nông sản của Việt Nam đứng vị thế cao trên thế giới về sản lượng như: Tiêu đứng thứ nhất, cà phê đứng thứ hai, cao su và điều đứng thứ ba, lúa gạo đứng thứ năm và chè đứng thứ sáu.
Tầm nhìn đến năm 2045, ngành nông nghiệp Việt Nam hướng tới nông nghiệp sinh thái, sản xuất hàng hóa quy mô lớn, có giá trị gia tăng cao, gắn kết chặt chẽ với thị trường trong và ngoài nước, công nghiệp chế biến và bảo quản nông sản hiện đại, xuất khẩu nhiều loại nông sản đứng hàng đầu thế giới.
Ngành thủy sản cũng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt chiến lược phát triển đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 dựa trên quan điểm “xây dựng thủy sản thành ngành kinh tế có quy mô và tỷ suất hàng hóa lớn, có thương hiệu uy tín, tham gia sâu vào chuỗi cung ứng toàn cầu, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững. Đến năm 2045, “thủy sản là ngành kinh tế thương mại hiện đại, bền vững; là trung tâm chế biến sâu, thuộc nhóm ba nước sản xuất và xuất khẩu thủy sản dẫn đầu thế giới; giữ vị trí quan trọng trong cơ cấu các ngành kinh tế nông nghiệp và kinh tế biển.
Dù đạt được nhiều thành tựu quan trọng, ngành nông nghiệp và thủy sản vẫn đang đối mặt với những thách thức lớn và lâu dài như mô hình sản xuất hộ gia đình vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Sự thiếu liên kết giữa các tác nhân trong chuỗi giá trị khiến chi phí cao, khó kiểm soát chất lượng và dễ tổn thương khi thị trường biến động.
Tình trạng xâm nhập mặn, hạn hán, lũ lụt và sạt lở ngày càng nghiêm trọng, nhất là tại ĐBSCL, vùng trọng điểm sản xuất nông sản và thủy sản của cả nước. Tình trạng thời tiết cực đoan ảnh hưởng đến sản lượng, chất lượng và tính ổn định của sản xuất. Cùng đó, nhiều sản phẩm chưa đáp ứng yêu cầu kỹ thuật của thị trường xuất khẩu cao cấp. Việc áp dụng tiêu chuẩn VietGAP, GlobalGAP, hữu cơ… còn chậm và thiếu sự giám sát hiệu quả.
Với riêng thủy sản, khó khăn nhất vẫn là rào cản từ các thị trường nhập khẩu, trong đó nổi bật là cảnh báo “thẻ vàng” IUU của Ủy ban châu Âu do vấn đề khai thác vi phạm vùng biển nước ngoài, truy xuất nguồn gốc còn yếu. Đồng thời, khai thác gần bờ ngày càng cạn kiệt, trong khi chuyển dịch sang nuôi biển công nghệ cao chưa đủ mạnh để thay thế…
Trong bối cảnh toàn cầu đầy biến động, ngành nông nghiệp và thủy sản Việt Nam càng cần củng cố vai trò “trụ đỡ”, bảo đảm lương thực và xuất khẩu, an ninh quốc gia và chủ quyền biển đảo.
Chặng đường 80 năm phát triển của ngành nông nghiệp và thủy sản Việt Nam là hành trình đầy tự hào. Từ những thửa ruộng nghèo, những chiếc thuyền nhỏ, đến nay chúng ta đã có những cánh đồng mẫu lớn công nghệ cao, những vùng nuôi biển hiện đại vươn ra đại dương, khẳng định vị thế trên thị trường thế giới.
Ông Lê Minh Hoan, Phó Chủ tịch Quốc hội, nguyên Bộ trưởng Bộ NN&PTNT, đã từng khẳng định: “Nông nghiệp Việt Nam không chỉ là câu chuyện của lương thực mà còn là văn hóa, sinh thái và giá trị nhân văn. Hành trình phát triển thần kỳ của nông nghiệp Việt Nam đã được viết nên bằng mồ hôi, khát vọng và trí tuệ của người nông dân, nhà khoa học và cả hệ thống chính trị. Thời gian tới, nông nghiệp Việt Nam sẽ tiếp tục là ngành kinh tế chủ lực cho sự phát triển bền vững của đất nước”. 

Tác giả bài viết: Phan Thảo/ Tạp chí Thủy sản


 

Tổng số điểm của bài viết là: 0 trong 0 đánh giá

Click để đánh giá bài viết

  Ý kiến bạn đọc

 

Những tin đã đăng