HỘI THỦY SẢN VIỆT NAM - VINAFIShttps://vinafis.org.vn/uploads/logo-web-105.png
Thứ sáu - 06/06/2025 02:0520
Chính sách thuế đối ứng ở mức cao trên diện rộng của Mỹ tác động không nhỏ đến tăng trưởng kinh tế toàn cầu, ảnh hưởng tới chuỗi cung ứng và dòng chảy thương mại, đầu tư quốc tế. Chính sách này có nguy cơ ảnh hưởng đến nhiều mặt hàng trọng điểm của Việt Nam và thủy sản cũng không phải là ngoại lệ. Tuy nhiên, theo PGS.TS Nguyễn Hồng Nga – Chuyên gia kinh tế, trong nguy có cơ nên ngành thủy sản cần chuyển dịch một cách linh hoạt và hợp lý.
Dù ít nhưng Việt Nam vẫn có chút lợi thế
PGS.TS Nguyễn Hồng Nga
TSVN: Theo thông tin mới nhất thì Việt Nam sẽ thuộc nhóm các nước đầu tiên đàm phán với Mỹ về vấn đề thuế đối ứng bắt đầu từ ngày 7/5. Vậy lợi thế trong cuộc đàm phán này của Việt Nam là gì, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Hồng Nga: Thực ra, Việt Nam có rất ít lợi thế trong việc đàm phán với Mỹ bởi chúng ta chưa có vị thế của một cường quốc như Trung Quốc, Nhật Bản hay Nga. Tuy nhiên, chúng ta cũng có đôi chút lợi thế nhỏ nhoi thế này.
Thứ nhất, Việt Nam đang là đối tác chiến lược toàn diện với Mỹ. Hai bên xác định gắn bó lợi ích lâu dài, hỗ trợ lẫn nhau và thúc đẩy sự hợp tác sâu rộng và toàn diện trên tất cả các lĩnh vực mà các bên cùng có lợi. Đồng thời, hai bên còn xây dựng sự tin cậy lẫn nhau ở cấp chiến lược. Trong đó, kinh tế giữ vài trò chủ lực trong quan hệ đối tác chiến lược toàn diện.
Thứ hai, những hàng hóa xuất khẩu của Việt Nam qua Mỹ không cạnh tranh với hàng hóa xuất khẩu hàng đầu của Mỹ. Top 5 hàng hóa xuất khẩu nhiều nhất của Mỹ năm 2024 là: Nhiên liệu khoáng và dầu khoáng, lò phản ứng hạt nhân và thiết bị cơ khí, thiết bị và máy móc điện, xe cộ, máy bay, tàu vũ trụ và các bộ phận của chúng. Trong khi đó, 5 hàng hóa xuất khẩu lớn nhất của Việt Nam vào Mỹ là: Máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác, hàng dệt may, điện thoai các loại và các linh kiện, gỗ và sản phẩm gỗ. Có thể nói là “Nước sông không đụng nước giếng”.
Thứ ba, Việt Nam là nước có nền kinh tế năng động và sáng tạo, là đối tác thương mại với hầu hết các nước và vùng lãnh thổ trên thế giới. Hợp tác với Việt Nam là gián tiếp tác động tới tất cả đối tác của Việt Nam nên không thể nói là không có lợi khi có mối quan hệ chia sẻ trong kinh tế, nhất là trong quan hệ thương mại.
Thứ tư, vị trí địa kinh tế, chính trị của Việt Nam rất đẹp và nhân văn với tinh thần thêm bạn, bớt thù và quan hệ lâu dài, hướng tới tương lai cùng có lợi trên cơ sở tôn trọng khác biệt. Với hơn 100 triệu người, Việt Nam đứng thứ 15 thế giới về dân số và là nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, thì việc có đối tác như Việt Nam là một điều có lợi cho Mỹ khi xuất khẩu những mặt hàng xa xỉ và chất lượng sang Việt Nam.
TSVN: Trong cán cân xuất nhập khẩu giữa Việt Nam và Mỹ, câu chuyện thuế đối ứng sẽ ảnh hưởng đến lĩnh vực nào nhất, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Hồng Nga: Chắc chắn thuế đối ứng sẽ ảnh hưởng đến các hàng hóa chúng ta xuất khẩu nhiều nhất sang Mỹ, nhất là các hàng hóa công nghệ cao, đó là máy vi tính, sản phẩm điện tử và linh kiện, máy móc, thiết bị, dụng cụ phụ tùng khác, điện thoại các loại và các linh kiện bởi. Vì Mỹ là quốc gia có công nghệ hiện đại nhất thế giới và các sản phẩm xuất khẩu nêu trên hầu hết là do các khu vực FDI sản xuất với trình độ công nghệ cao và sản phẩm gần như là thiết yếu với thế giới hiện đại. Hàng dệt may cũng có thể bị tác động ít nhiều vì 80 – 90% đầu vào chúng ta phải nhập khẩu, đa phần từ Trung Quốc.
PGS. TS Nguyễn Hồng Nga: Với hơn 100 triệu người, Việt Nam đứng thứ 15 thế giới về dân số và là nền kinh tế phát triển với tốc độ cao, thì việc có đối tác như Việt Nam là một điều có lợi cho Mỹ khi xuất khẩu những mặt hàng xa xỉ và chất lượng sang Việt Nam.
Cần thích nghi với bối cảnh mới
TSVN: Nhiều ý kiến cho rằng, rất khó để Mỹ đưa thuế về 0%, điều đó có nghĩa là lợi thế của Việt Nam tại thị trường Mỹ sẽ cần phải bàn tính lại. Nhận định của ông về vấn đề này như thế nào, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Hồng Nga: Trong tình thế hiện nay, gần như chắc chắn Mỹ sẽ không đưa thuế về 0% vì những lý do kinh tế. Phương án tối ưu nhất đối với Việt Nam hiện này là xoay quanh 10%. Cho nên, chúng ta phải tính toán ra sao để có thể vẫn còn lợi thế xuất khẩu sang thị trường Mỹ, nhất là các sản phẩm sử dụng lao động nhiều hơn máy móc và công nghệ và các sản phẩm nông lâm thủy sản.
TSVN: Trong trường hợp tình huống thực sự không như mong muốn, Việt Nam cần làm gì để giữ vững những lợi thế thu hút đầu tư, đặc biệt là với các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Hồng Nga: Với giả định có những tình huống không như mong đợi, chúng ta cần thích nghi trong bối cảnh mới và cần làm những việc để đổi mới bản thân.
Thứ nhất, chúng ta vẫn cần ổn định chính trị và tăng cường trách nhiệm giải trình của Chính phủ với người dân và quốc tế về các vấn đề kinh tế, nhất là kinh tế đối ngoại và ngoại giao kinh tế.
Thứ hai, Chính phủ vẫn phải cố gắng trở thành nhà nước kiến tạo phát triển, giảm thiểu và kiểm soát tham nhũng hiệu quả để giảm chi phí giao dịch và gia tăng niềm tin của dân chúng và bạn bè trên thế giới.
Thứ ba, cam kết với các nước đã ký kết FTA là sẽ không trả đũa và tuân thủ hiệp định nếu các bên tôn trọng nhau trên cơ sở cùng có lợi trong ngắn và dài hạn.
Thứ tư, cần chứng mình cho thế giới là Việt Nam luôn là đối tác tin cậy, luôn coi trọng phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo và có một thị trường hơn 100 triệu dân với sức mua to lớn từ lợi ích trong tăng trưởng và phát triển kinh tế.
Doanh nghiệp phải gia tăng “sức đề kháng”
TSVN: Vậy các doanh nghiệp Việt Nam cần làm gì để không xảy ra “cú sốc” trong xuất khẩu, đặc biệt là khi thời điểm hoãn thực hiện chỉ còn hơn 1 tháng nữa, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Hồng Nga: Các doanh nghiệp Việt Nam cần phải thích nghi và gia tăng sức đề kháng trước các cú sốc từ phía ngoài, nhất là từ xuất khẩu, bởi xuất khẩu là cứu cánh của nền kinh tế mở như Việt Nam.
Thực ra, theo quan điểm cá nhân, sẽ không có cú sốc lớn trong xuất khẩu của Việt Nam vì dù sao nước ta chỉ chiếm 4% kim ngạch nhập khẩu của Mỹ và đây là một trò chơi kinh tế mà Mỹ đưa ra để đe dọa các nước có thể ảnh hưởng trực tiếp tới sự phồn vinh của Mỹ về lâu dài như Trung Quốc. Còn Việt Nam chẳng qua là một đối tượng để Mỹ thương thảo có lợi nhất với tất cả các bên.
Tuy nhiên, nếu điều tồi tệ xảy ra thì cũng là một cơ hội và cơ sở để kinh tế Việt Nam thay đổi và chuyển mình để dối phó với nghịch cảnh.
Một là, chúng ta cần thay đổi cơ cấu kinh tế, phát triển kinh tế vừa dựa vào xuất khẩu nhưng cũng phải dựa vào thị trường nội địa với hơn 100 triệu dân.
Hai là, cần dựa vào nội lực là chủ yếu, nhất là các doanh nghiệp hay kinh tế tư nhân. Theo dữ liệu thống kê, khu vực tư nhân đóng góp lớn nhất vào tăng trưởng kinh tế, vì thế cần có những chính sách tạo điều kiện để kinh tế tư nhân phát triển mạnh mẽ thay vì những ưu đãi dành cho khu vực kinh tế nhà nước. Nghị quyết 68 của Trung ương cần được triển khai rộng rãi và thực tế.
Ba là, tăng cường phát triển và chủ động trong khoa học và công nghệ cốt lõi để hạn chế nhập khẩu các nguyên nhiên vật liệu để dùng tài chính nhập khẩu các dây chuyền sản xuất hiện đại, gia tăng năng lực sản xuất quốc gia.
Bốn là, đẩy mạnh xúc tiến, tìm kiếm các đối tác thương mại mới và tiềm năng để lấp khoảng trống về xuất khẩu mà thị trường Mỹ để lại. Hơn nữa, tăng cường hợp tác với các đối tác lâu năm để tìm kiếm thêm thị trường ngách trong các đối tác này.
Năm là, chủ động nắm bắt và định hình chuỗi giá trị toàn cầu mới trong bối cảnh mới về công nghệ và địa chính trị toàn cầu.
TSVN: Với riêng lĩnh vực thủy sản, mặc dù gặp phải cạnh tranh gay gắt, nhiều doanh nghiệp đã và đang có định hướng thị trường mới, tuy nhiên, không thể phủ nhận tầm quan trọng của thị trường Mỹ khi chiếm gần 1/5 tổng giá trị xuất khẩu. Vậy, ngành thủy sản Việt Nam cần phải làm gì nếu thuế đối ứng này còn tồn tại dù ít, thưa ông?
PGS.TS Nguyễn Hồng Nga: Như tôi đã phân tích, ngành thủy sản ít có khả năng bị tác động nhiều vì sản phẩm của Việt Nam có tính cạnh tranh cao trên quốc tế. Dĩ nhiên, nếu có thuế đối ứng thì chúng ta phải chấp nhận và tìm cách thích nghi trước khi Mỹ đưa về vị trí như trước đây.
Thứ nhất, tìm thêm và gia tăng hiệu quả xúc tiến thương mại bởi thủy sản đang và sẽ làm món ăn tốt cho người dân trên thế giới.
Thứ hai, đây là cơ hội để ngành thủy sản tiếp tục giảm chi phí sản xuất với việc áp dụng công nghệ trong việc đánh bắt thủy sản, nhất là chủ động nuôi trồng quy mô lớn để tận dụng tính kinh tế theo quy mô. Nghị quyết 57 về khoa học công nghệ cần thực hiện triệt để trong ngành thủy hải sản.
Thứ ba, tập trung hơn vào thị trường nội địa để gia tăng xuất khẩu tại chỗ cho thị trường trong nước và khách quốc tế.
Thứ tư, trong nguy có cơ, nên với việc bị đánh thuế đối ứng cao thì chuyển dịch cơ cấu sản xuất của ngành thủy sản một cách linh hoạt và hợp lý sẽ mở ra một “kỷ nguyên mới” cho ngành thủy sản trong tương lai.