HỘI THỦY SẢN VIỆT NAM - VINAFIShttps://vinafis.org.vn/uploads/logo-web-105.png
Thứ hai - 02/06/2025 03:2730
Trung tâm Khuyến nông Quốc gia sẽ tiếp tục xây dựng các mô hình trình diễn và tập huấn kỹ thuật, cùng đồng hành với các hộ nuôi trồng thủy sản (NTTS) tại Đồng bằng sông Hồng (ĐBSH).
Nhiều giải pháp thiết thực
Khu vực ĐBSH có nhiều tiềm năng, lợi thế để phát triển nuôi thủy sản, thế nhưng khó khăn, thách thức vẫn luôn hiện hữu. Trong đó, nhiều vấn đề nổi cộm đang đè nặng lên vai người nuôi như: con giống, thức ăn kém chất lượng, quy trình nuôi chưa cải tiến, việc áp dụng công nghệ còn hạn chế, cơ sở hạ tầng còn yếu kém, môi trường nước ô nhiễm, thiên tai, dịch bệnh…
Nhằm tìm ra các giải pháp nâng cao hiệu quả NTTS, mới đây, Trung tâm Khuyến nông quốc gia phối hợp với Cục Thủy sản và Kiểm ngư, Sở Nông nghiệp và Môi trường tỉnh Hải Dương đã tổ chức Tọa đàm “Giải pháp phát triển nuôi thủy sản bền vững ở Đồng bằng sông Hồng”. Sự kiện thu hút hơn 100 đại biểu, bao gồm đại diện các cơ quan quản lý, chuyên gia, doanh nghiệp và nông dân nuôi thủy sản.
Để đánh thức tiềm năng NTTS Đồng bằng sông Hồng, ông Nhữ Văn Cẩn, Phó Cục trưởng Cục Thủy sản và Kiểm ngư cho rằng, các địa phương cần đẩy mạnh triển khai thực hiện chương trình tái cơ cấu ngành thủy sản theo hướng nâng cao giá trị và phát triển bền vững; gắn sản xuất với bảo vệ môi trường sinh thái, quan tâm đến vấn đề an toàn thực phẩm, nâng cao chất lượng và giá trị sản phẩm.
Đối với địa phương có nhiều diện tích tiềm năng để phát triển, ông Cẩn gợi ý nên có cơ chế khuyến khích, thu hút doanh nghiệp đầu tư để phát triển thành vùng sản xuất hàng hóa tập trung, liên kết chuỗi, từ cung cấp vật tư đầu vào đến bao tiêu sản phẩm. Trong đó, ưu tiên phát triển nuôi cá lồng là các loài có giá trị kinh tế trên sông, hồ chứa như cá lăng, nheo, nheo Mỹ, rô phi đơn tính, cá chép…
Với các tỉnh ven biển, ông Cẩn lưu ý nên tiếp tục đẩy mạnh phát triển nuôi các đối tượng chủ lực, có giá trị kinh tế như tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá biển, nuôi các loài nhuyễn thể, trồng rong biển vùng triều thấp, cửa sông; hướng tới phát triển nuôi trồng thủy sản vùng biển mở.
“Để thực hiện thành công kế hoạch năm 2025 và các năm tiếp theo, địa phương cần tiếp tục triển khai thực hiện hiệu quả các chủ trương, chính sách phát triển thủy sản; đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng vùng NTTS tập trung theo công nghệ mới, tiên tiến, tăng năng suất, giảm giá thành; sản xuất NTTS đa giá trị, phong phú sản phẩm.
Thực hiện tốt công tác quan trắc, cảnh báo môi trường vùng nuôi trọng điểm, khuyến cáo kịp thời đến người nuôi; kiểm tra, giám sát chặt chẽ và có biện pháp xử lý kịp thời tình hình dịch bệnh”, ông Cẩn gợi mở.
Thời gian qua, Trung tâm khuyến nông Quốc gia đã phối hợp với Trung tâm Khuyến nông các tỉnh phía Bắc, các viện nghiên cứu, các trường đại học đóng trên địa bàn xây dựng nhiều mô hình về khuyến ngư nhằm chuyển giao tiến bộ kỹ thuật mới đến với bà con nông dân. Đây là hoạt động có ý nghĩa, mang tính thuyết phục cao khi người nông dân được tận mắt nhìn thấy những kết quả sản xuất nông nghiệp qua việc áp dụng các tiến bộ kỹ thuật mới, từ đó họ tin tưởng và tự quyết định làm theo.
Phó Giám đốc Trung tâm Khuyến nông Quốc gia Hoàng Văn Hồng nhấn mạnh: “Muốn nuôi thủy sản đạt hiệu quả cao, người nuôi không thể duy trì sản xuất nhỏ lẻ, manh mún mà cần nâng cao kỹ thuật, đồng thời, tích cực tham gia sản xuất cộng đồng, hướng tới liên kết theo chuỗi giá trị”.
Ông Hồng cho biết, thời gian tới, Trung tâm Khuyến nông Quốc gia sẽ tiếp tục xây dựng các mô hình trình diễn và tập huấn kỹ thuật, cùng đồng hành với người nuôi. Đặc biệt, tăng cường hợp tác giữa hệ thống khuyến nông với các tổ chức, doanh nghiệp, các tổ chức quốc tế theo hình thức hợp tác công tư tạo sức mạnh tập thể, góp phần phát triển hiệu quả và bền vững nghề NTTS tại khu vực ĐBSH nói riêng và cả nước nói chung. Mở rộng cơ hội
Xuyên Việt COOP là một trong những đơn vị tiên phong nuôi cá nước ngọt thành công tại Đồng bằng sông Hồng. Ông Lê Văn Việt, Giám đốc công ty chia sẻ, bí quyết cốt lõi nằm ở khâu quản lý môi trường ao nuôi.
“Khi ứng dụng công nghệ nuôi “sông trong ao”, chúng tôi sử dụng thiết bị để tăng lượng ôxy trong môi trường nước chứ không đợi đến khi cá nổi lên mới quạt máy như cách làm của bà con. Chúng tôi cũng trộn các chế phẩm sinh học, men vi sinh để thúc đẩy quá trình trao đổi chất của cá, giúp cá lớn nhanh và khỏe mạnh”, ông Việt nói.
Xuyên Việt COOP đã ứng dụng công nghệ IoT trong quản lý hồ nuôi, với khả năng tự động cảnh báo các thông số môi trường nước và kết nối điều khiển các thiết bị xử lý, giúp tối ưu hóa điều kiện nuôi trồng. Nhờ áp dụng công nghệ này, công ty đạt sản lượng khoảng 200 tấn cá/ha, mỗi lứa cá cho thu hoạch chỉ sau 3 tháng nuôi.
Mô hình nuôi cá nước ngọt “sông trong ao” của HTX Sản xuất và Thương mại Xuyên Việt, huyện Tứ Kỳ, tỉnh Hải Dương. Ảnh: Thùy Khánh
Thành công của Xuyên Việt COOP hứa hẹn mở ra nhiều hướng đi mới cho người nuôi thủy sản Đồng bằng sông Hồng. Với địa hình tự nhiên đa dạng, nơi đây hoàn toàn có thể phát triển nhiều loại hình NTTS như nuôi bãi triều, nuôi mặn lợ; lồng bè trên sông, hồ chứa; nuôi ao, nuôi kết hợp trong ruộng lúa,… Một số địa phương có thể nuôi các đối tượng phục vụ xuất khẩu như tôm sú, tôm thẻ chân trắng, cá song, cá vược, cá giò, các đối tượng nhuyễn thể như: hàu, tu hài, ốc hương…
Theo thống kê của Cục Thủy sản và Kiểm ngư, ước tính diện tích tiềm năng có thể phát triển NTTS tại ĐBSH rất lớn với khoảng 163.237 ha, trong đó 82,9% diện tích nuôi nước ngọt, khoảng 17,1 % nuôi nước mặn, lợ.
Ngoài ra, toàn vùng còn có hàng trăm nghìn ha diện tích mặt nước hồ chứa, hồ thủy điện, hồ thủy lợi có thể phát triển nuôi cá lồng bè, nuôi cá hồ chứa, nuôi cá lồng bè trên sông.
Hiện nay, toàn vùng có 493 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản, trong đó có 60 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản nước ngọt và 433 cơ sở sản xuất, ương dưỡng giống thủy sản mặn lợ. Hoạt động sản xuất, cung ứng giống cơ bản đáp ứng được khoảng 80% nhu cầu giống thả nuôi của khu vực. Người dân cũng đã chủ động áp dụng nhiều công nghệ mới trong NTTS như: mô hình sông trong ao; ương cá tầm không dùng trùn chỉ; sản xuất giống lươn ít bùn… nên năng suất, chất lượng thủy sản đều tăng cao.
Năm 2025, ĐBSH đặt mục tiêu duy trì diện tích NTTS khoảng 115.000 ha (tăng 132 ha so với năm ngoái) và 948.000 m3 lồng bè (tăng 1.084 m3 so với năm trước). Sản lượng nuôi trồng thủy sản ước đạt 850.000 tấn (tăng 3% so với năm 2024).
Năm 2024, tổng diện tích NTTS của các tỉnh vùng Đồng bằng sông Hồng đạt 114.868 ha và 946.916 m3 lồng bè; sản lượng nuôi đạt 823.871 tấn, bằng 103 % so với cùng kỳ năm 2023. Trong đó, diện tích NTTS mặn lợ đạt 20.531 ha và 45.000 m3 lồng bè, tập trung tại Hải Phòng, Thái Bình, Nam Định, Ninh Bình với sản lượng 256.798 tấn. Diện tích NTTS nước ngọt đạt 94.336 ha và 901.916 m3 lồng bè. Sản lượng nuôi khoảng 567.073 tấn.